{1}
##LOC[OK]##
{1}
##LOC[OK]##
##LOC[Cancel]##
{1}
##LOC[OK]##
##LOC[Cancel]##
Email
Thông tin nội bộ
E-Office
E-LEARNING
Dịch vụ công
HĐ Giáo sư
Mục tiêu PT Bền vững
Toggle navigation
Giới thiệu
Lịch sử hình thành và phát triển trường
Chiến lược phát triển Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 2020 - 2030
Thư Hiệu trưởng
Hệ thống nhận diện
Bản đồ đường đi
Cơ cấu tổ chức
Đảng ủy trường
Danh sách Đảng ủy trường
Hội đồng trường
Ban Giám hiệu
Hội đồng Khoa học và Đào tạo
Hội đồng tư vấn
Các tổ chức đoàn thể
Công đoàn
Đoàn Thanh niên
Hội Cựu chiến binh
Hội Sinh viên
Các đơn vị trực thuộc trường
Ba công khai
Mạng lưới Cựu sinh viên
Câu chuyện NEU
Đơn vị
Khối chức năng
Phòng Tổng hợp
Phòng Tổ chức Cán bộ
Phòng Quản lý Đào tạo
Phòng Quản lý Khoa học
Phòng Hợp tác Quốc tế
Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục
Phòng Công tác chính trị và Quản lý sinh viên
Phòng Thanh tra - Pháp chế
Phòng Tài chính - Kế toán
Phòng Truyền thông
Phòng Quản trị Thiết bị
Trạm Y tế
Tạp chí Kinh tế & Phát triển
Nhà xuất bản
Viện Đào tạo Tiên tiến, Chất lượng cao và POHE
Viện Đào tạo Sau đại học
Viện Đào tạo Quốc tế
Khối đào tạo & NCKH
Trường Công nghệ
Viện Công nghệ thông tin và Kinh tế số
Khoa Toán Kinh tế
Khoa Thống kê
Trường Kinh doanh
Viện Quản trị Kinh doanh
Khoa Quản trị Kinh doanh
Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế
Khoa Marketing
Khoa Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực
Khoa Bảo hiểm
Khoa Bất động sản và Kinh tế tài nguyên
Khoa Du lịch & Khách sạn
Trường Kinh tế và Quản lý công
Khoa Kinh tế học
Khoa Khoa học Quản lý
Khoa Kế hoạch & Phát triển
Khoa Môi trường, Biến đổi khí hậu và Đô thị
Khoa Đầu tư
Khoa Luật
Khoa Lý luận Chính trị
Khoa Ngoại ngữ Kinh tế
Viện Ngân hàng - Tài chính
Viện Kế toán - Kiểm toán
Viện Phát triển Bền vững
Khoa Đại học Tại chức
Bộ môn Giáo dục thể chất
Khối hỗ trợ
Trung tâm Ứng dụng công nghệ thông tin
Trung tâm Đào tạo liên tục
Trung tâm Thông tin - Thư viện
Trung tâm Đào tạo từ xa
Trung tâm Dịch vụ hỗ trợ đào tạo
Trung tâm Ngoại ngữ kinh tế
Trung tâm Đào tạo và tư vấn CNTT
Trung tâm Nghiên cứu, Tư vấn Kinh tế và Kinh doanh
Trung tâm Khởi nghiệp & Sáng tạo xã hội
Tổ chức chính trị - xã hội
Đảng bộ Trường ĐH KTQD
Hội Cựu chiến binh
Hội Sinh viên
Đoàn Thanh niên
Công đoàn trường
Mạng lưới Cựu sinh viên
Hội đồng Giáo sư
Hội đồng Giáo sư cơ sở
HĐ Giáo sư ngành Kinh tế
Kiểm toán nội bộ
Đào tạo
Đại học
Sau đại học
Chương trình tiên tiến
Đào tạo ngắn hạn
Chứng chỉ Ứng dụng CNTT cơ bản
Ngoại ngữ
Chứng chỉ Kinh tế, Kế toán, Kế toán trưởng, Marketing, Quản trị kinh doanh
Chứng chỉ về Kế toán - Kiểm toán
Chứng chỉ Bảo hiểm và chứng chỉ của ANZIIF
Hợp tác quốc tế
Giới thiệu về hợp tác Quốc tế
Tin tức về hợp tác Quốc tế
Chương trình liên kết đào tạo
Quy định về Chương trình liên kết đào tạo tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
CÁC CHƯƠNG TRÌNH LIÊN KẾT ĐÀO TẠO VỚI NƯỚC NGOÀI TẠI TRƯỜNG ĐHKTQD
Mạng lưới hợp tác quốc tế
Cơ hội và Học bổng
Học bổng dành cho giảng viên
Học bổng ngoài ngân sách Chính phủ
Học bổng dành cho sinh viên
Trao đổi sinh viên và du học
Nghiên cứu khoa học
Thông báo
Thư mời viết bài hội thảo
Đề tài
Cấp Nhà nước
Cấp Bộ
Danh mục
Kết quả nghiên cứu
Cấp Trường
Danh mục
Kết quả nghiên cứu
Hợp đồng với bên ngoài
Hội thảo
Thư mời viết bài hội thảo
Hội thảo quốc tế CIEMB
Hội thảo Đánh giá Kinh tế VN thường niên
Hội thảo quốc tế
Hội thảo quốc gia
Tọa đàm
Đối thoại chính sách
Seminars
Sinh hoạt khoa học bộ môn
Học kỳ 1 - 2024
Học kỳ 2 - 2023
Học kỳ 1 - 2023
NCKH sinh viên
Sản phẩm NCKH
Công bố quốc tế
Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên
Năm 2022
Năm 2021
Năm 2020
Năm 2019
Năm 2018
Năm 2017
Kiến nghị chính sách
NEU trên truyền thông
Hướng dẫn triển khai hoạt động KHCN
Useful Links
Link tra cứu các tạp chí có uy tín
Các chương trình tài trợ nghiên cứu
Các cơ quan quản lý nhà nước
Các cơ sở dữ liệu
Link hỗ trợ nghiên cứu
Văn bản quản lý
Tuyển sinh
Dịch vụ
Dịch vụ công
QL Giảng đường
Dịch vụ công
E-Office
Thư viện
CSDL điện tử
Thư viện
Quản lý đào tạo
Quản lý giảng đường
Quản lý đào tạo ĐHCQ (QLĐT2)
Quản lý đào tạo tại chức
Tra cứu văn bằng
Lấy ý kiến người học
Quản lý giảng đường
NEU Book
Đảng - Đoàn thể
Đảng bộ
Công đoàn
Website công đoàn
Tin công đoàn
Đoàn Thanh Niên
Hội sinh viên
Hội cựu Chiến binh
Thông Báo - Tin Tức
Thông báo
Phòng chống dịch bệnh
Thông báo tuyển sinh
Thông tin kinh tế
Bản tin nội bộ
Văn bản mới - Chính sách mới
QUỐC HỘI XV
Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs)
Câu chuyện NEU
Trang Chủ
/
Tin tức mới nhất
/
Kinh tế 6 tháng đầu năm 2019: Tăng trưởng chậm lại nhưng chưa mất "đà", nhiều thách thức đặt ra cho nửa cuối năm
Kinh tế 6 tháng đầu năm 2019: Tăng trưởng chậm lại nhưng chưa mất "đà", nhiều thách thức đặt ra cho nửa cuối năm
08/07/2019
Theo GS. Trần Thọ Đạt, việc ký kết các FTA, CPTPP và EVFTA đã tạo cơ hội rất lớn cho nền kinh tế, nhân rộng các cơ hội kinh doanh cũng như tạo thêm các động lực tăng trưởng mới. Tuy nhiên, đấy chỉ là điều kiện cần, vấn đề là ta có nắm bắt và khai thác được cơ hội do các hiệp định này tạo ra không?
GS.TS Trần Thọ Đạt - Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ
Nền kinh tế năm 2019 đã đi qua nửa chặng đường. Các số liệu kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm đã được công bố. GS. Trần Thọ Đạt, Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng đã chia sẻ về những kết quả quan trọng nền kinh tế đã đi qua 6 tháng đầu năm và các thách thức còn lại của nửa cuối năm.
PV:
Giáo sư
có thể đánh giá tổng quan các diễn biến kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2019 và một số "điểm nghẽn" tăng trưởng cần tháo gỡ hiện nay?
GS. Trần Thọ Đạt:
Để đánh giá một cách khách quan và toàn diện các kết quả kinh tế - xã hội đạt được trong 6 tháng đầu năm, cần nhìn nhận đầy đủ bối cảnh quốc tế và trong nước trong thời gian qua. Kinh tế thế giới đã được dự đoán từ trước là đang trong xu hướng tăng trưởng chậm lại và dự báo gần đây lại được điều chỉnh giảm hơn, các yếu tố rủi ro liên quan đến căng thẳng thương mại làm suy giảm niềm tin kinh doanh, các điểm nóng địa chính trị vẫn diễn biến phức tạp. Kinh tế trong nước gặp không ít khó khăn thách thức với thời tiết diễn biến phức tạp, dịch tả lợn châu Phi vẫn lan rộng,...
Trong bối cảnh đó, tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm đã giảm so với cùng kỳ năm trước (6,76% so với 7,05%) là có thể hiểu được, vì mức tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2018 được coi là khá "đột biến". Hơn nữa, mức tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2019 vẫn cao hơn so với tăng trưởng 6 tháng đầu năm cả giai đoạn 2011-2017, nên mặc dù tăng trưởng có chậm lại nhưng nền kinh tế vẫn chưa được coi là mất "đà" trong xu hướng phục hồi (quý II năm 2019 tăng trưởng 6,71%, chỉ giảm nhẹ so với 6,73% cùng kỳ năm trước). Ngoài ra, với mức tăng trưởng 6,76%, Việt Nam vẫn là nước có tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực.
Các diễn biến kinh tế vĩ mô khác là khá khả quan như lạm phát đang được kiểm soát, lãi suất và tỷ giá khá ổn định, thu hút và giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng, hội nhập quốc tế có bước tiến mạnh mẽ,… Xếp hạng tín nhiệm của S&P, Fitch đều nâng hạng là minh chứng khá rõ cho việc đánh giá tình hình ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã có cải thiện.
Còn những "điểm nghẽn" cần tháo gỡ, theo tôi gồm: về phía cung, ngành dịch vụ mặc dù dư địa tăng trưởng lớn nhưng 6 tháng đầu năm chỉ tăng trưởng thấp hơn GDP, nông nghiệp tăng trưởng yếu. Về phía cầu, tiến độ giải ngân đầu tư công và vốn ODA vẫn chậm, tăng trưởng xuất khẩu có xu hướng giảm mặc dù hiệp định CPTPP đã có hiệu lực.
PV
: Vài tháng trước, sau khi có đợt tăng mạnh giá điện và xăng dầu, đã có một số đánh giá khả năng duy trì lạm phát dưới 4% là rất khó khăn.
Giáo sư
nhận định thế nào về thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát năm nay?
GS. Trần Thọ Đạt:
Trong quý I và đầu quý II đã có nhiều đợt tăng giá xăng dầu liên tiếp tổng cộng lên đến gần 20% và tăng giá điện 8,36%. Tuy nhiên, bình quân lạm phát 6 tháng chỉ là 2,64%, thấp nhất trong 3 năm gần đây. Lý do có thể được giải thích là giá của một số mặt hàng thiết yếu tăng chậm đã triệt tiêu phần nào tác động của tăng giá điện và xăng dầu đến CPI bình quân, trong tháng 6 lại có một số đợt giảm giá xăng. Chúng tôi cho rằng lo ngại về tác động "vòng 2" của tăng giá mạnh điện và xăng dầu đến nay cơ bản đã không còn, công tác điều hành giá đã khá chủ động, linh hoạt về liều lượng và thời điểm, góp phần quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát theo mục tiêu của năm.
Lạm phát cơ bản hiện tại vẫn khá ổn định, bình quân 6 tháng ở mức 1,87% chỉ nhích nhẹ so với các tháng trước, tạo tiền đề cho Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng hiện nay là chủ động, linh hoạt trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng hợp lý. Mặc dù rủi ro áp lực lạm phát từ nay đến cuối năm vẫn còn, đặc biệt là có thể có những biến động trong giá xăng dầu thế giới, nhưng nhiều tính toán dựa trên mô hình dự báo định lượng hiện nay đều cho thấy khả năng lạm phát bình quân cả năm vượt mức trần 4% là khó xảy ra.
PV:
Giáo sư vừa đề cập đến việc điều hành của NHNN, vậy giáo sư dự báo thế nào về khả năng biến động lãi suất từ nay đến cuối năm?
GS. Trần Thọ Đạt:
Lãi suất trong thời gian tới sẽ phụ thuộc nhiều vào biến động của các biến số kinh tế vĩ mô khác như tỷ giá, lạm phát, cán cân thanh toán, vào thanh khoản của hệ thống ngân hàng trong nước và rõ ràng chúng ta cũng không thể miễn nhiễm với biến động của thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế (chẳng hạn FED thay đổi lãi suất).
Với khả năng biến động của lạm phát và tỷ giá dự báo như hiện nay, nếu không có những biến động đặc biệt trên thị trường quốc tế thì lãi suất cơ bản sẽ giữ ổn định và khả năng giảm lãi suất là khó xảy ra. Có một số nguyên nhân khiến lãi suất huy động vẫn duy trì ở mức hiện tại, thậm chí có thể tăng nhẹ bao gồm: các kênh huy động vốn cạnh tranh khác như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng mạnh với lãi suất không giảm, các ngân hàng thương mại cần tiếp tục huy động vốn khi dư địa tăng trưởng tín dụng tổng thể từ nay đến cuối năm còn nhiều, đồng thời ngân hàng cần tiếp tục đáp ứng lộ trình giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, kết quả là nhu cầu huy động vốn vay trung và dài hạn sẽ tăng lên.
Lãi suất cho vay cũng sẽ tương đối ổn định ở mức như hiện nay vì các ngân hàng thương mại sẽ phải cân đối giữa nhu cầu vay, đặc biệt là nhu cầu cho vay cá nhân tăng lên với việc đáp ứng và duy trì chuẩn Basel II.
PV
: Thế còn biến động của tỷ giá và cách thức điều hành tỷ giá trung tâm hiện nay thì sao thưa giáo sư?
GS. Trần Thọ Đạt
: Cùng với độ mở ngày càng tăng của nền kinh tế và những biến động khó lường của thị trường tài chính tiền tệ gần đây, đặc biệt là biến động của USD và CNY và tỷ giá của cặp tiền tệ này, sức ép đến tỷ giá VND sẽ ngày càng tăng. Từ nay đến cuối năm, dự báo là cán cân vãng lai nếu có thâm hụt thì ở mức nhẹ, luồng vốn đầu tư nước ngoài vẫn duy trì đà tăng cao, dự trữ ngoại tệ đang khá dồi dào là những đảm bảo cho việc tỷ giá biến động trong phạm vi kiểm soát được. Việc tăng tỷ giá trung tâm trong bối cảnh hiện nay là điều khó tránh, tuy nhiên cách thức điều hành tỷ giá trung tâm một cách chủ động và linh hoạt, có lên có xuống trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào việc tạo lập tâm lý ổn định và niềm tin của thị trường.
PV:
Hiệp định CPTPP đã có hiệu lực từ đầu năm và EVFTA vừa được ký kết đã tạo niềm tin có sự gia tăng mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu 6 tháng đầu năm lại giảm so với năm trước, giáo sư có thể giải thích về điều này?
GS. Trần Thọ Đạt:
Hiệp định CPTPP đã chính thức có hiệu lực từ đầu năm và bước đầu xuất khẩu của Việt Nam sang một số nước thành viên đã có sự tăng trưởng mạnh (Canada, Mexico,…), xuất khẩu sang các thị trường có ký kết FTA với Việt Nam cũng đang tăng trưởng tốt (Nhật bản, ASEAN,…), sang Mỹ đã tăng mạnh trong 6 tháng qua. Tuy nhiên, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chỉ tăng 1%, sang thị trường EU giảm nên kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 7,3%, giảm so với cùng kỳ năm trước.
Việc ký kết các FTA, CPTPP và EVFTA đã tạo cơ hội rất lớn cho nền kinh tế, nhân rộng các cơ hội kinh doanh cũng như tạo thêm các động lực tăng trưởng mới. Tuy nhiên, đấy chỉ là điều kiện cần, vấn đề là ta có nắm bắt và khai thác được cơ hội do các hiệp định này tạo ra không? Muốn hội nhập thực sự hiệu quả và thành công, gia tăng được xuất khẩu, điều kiện đủ là phải cải cách môi trường thể chế, hướng tới các "luật chơi" quốc tế, qua đó giúp huy động và sử dụng tốt nhất những nguồn lực sẵn có ở trong nước và tận dụng tốt hơn các nguồn lực bên ngoài, thúc đẩy được khả năng cạnh tranh. Chúng ta phải có những cải cách thực chất và rõ rệt ở các lĩnh vực như dịch vụ, hải quan, thương mại điện tử, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, các vấn đề pháp lý, tiếp cận thị trường cho hàng hóa, quy tắc xuất xứ, các biện pháp phi thuế quan…
Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính; kết nối hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với dòng vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ khi đó, những cơ hội vàng mà mà các hiệp định tự do thương mại mới trở thành hiện thực.
PV:
Vậy thì từ nay đến cuối năm và các năm sau cần phải thực thi các giải pháp gì để nền kinh tế có thể tiếp tục tích lũy và "bứt phá", thưa giáo sư?
GS. Trần Thọ Đạt:
Trước hết, những "điểm nghẽn" cố hữu trong thời gian qua cần được giải quyết ngay: đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, vốn ODA và trái phiếu chính phủ, cần thiết thì phái điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn, tập trung phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao và còn nhiều dư địa phát triển như logistic, fintech, dịch vụ công nghệ thông tin, dịch vụ phát triển nông nghiệp, chú trọng gia tăng cả số lượng và chất lượng du lịch. Cần triển khai ngay các giải pháp tháo gỡ khó khăn, ổn định sản xuất cho ngành chăn nuôi.
Để sớm tận dụng các cơ hội do CPTPP và EVFTA mang lại, cần tăng cường xúc tiến thương mại và mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu hàng hóa, tránh phụ thuộc nhiều vào một hoặc một số thị trường, triển khai ngay các biện pháp kiểm soát và ngăn chặn gian lận thương mại, gian lận xuất xứ hàng hóa, đầu tư chui và núp bóng,…
Trong bối cảnh rủi ro gia tăng hiện nay, cần bám sát các diễn biến về tình hình kinh tế thế giới, chiến tranh thương mại, di chuyển dòng tiền và dòng vốn đầu tư, phân tích các nguy cơ tiềm ẩn để nâng cao năng lực dự phòng, sức chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường thu hút có chọn lọc đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Sớm áp dụng thí điểm các chính sách và khuôn khổ pháp luật mới cho các hoạt động liên quan đến chuyển đổi số, mô hình kinh tế chia sẻ, các mô hình hoạt động mới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng (fintech, thanh toán không dùng tiền mặt),… để nhanh chóng hình thành và tích lũy các động lực tăng trưởng mới, tạo bứt phá trong các năm sau.
Xin cảm ơn những chia sẻ của giáo sư!
Tùng Lâm (thực hiện)
Theo Trí thức trẻ
Góp ý
×
Thành công!
Cám ơn bạn!!
Họ và tên *
Tên đăng nhập không được trống.
Tiêu đề *
Nhập vào tiêu đề.
Email *
Email không hợp lệ
Nội dung*
Nhập vào nội dung.
Mã xác nhận
Gửi
Hủy
Các tin khác :
Kinh tế 6 tháng đầu năm 2019: Tăng trưởng chậm lại nhưng chưa mất "đà", nhiều thách thức đặt ra cho nửa cuối năm
08/07/2019
Hội nghị bầu thành viên Hội đồng trường đại diện cho giảng viên, nghiên cứu viên nhiệm kỳ 2019-2024
30/06/2019
Những sự kiện nổi bật trong tháng 6 của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
30/06/2019
Sinh Viên Tương Lai
Cán Bộ
Sinh Viên
Cựu Sinh Viên
Đối Tác
Công bố quốc tế
Liên Kết
×
×
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TUYỂN SINH ĐẠI HỌC CHÍNH QUY NĂM 2018
Top
×
Some text in the modal.