Bối cảnh
Năm 2019, mặc dù kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức khá 7,02%, gần bằng mức tăng trưởng kỷ lục 7,08% của năm 2018 trong vòng hơn một thập niên. Những động lực đóng góp chính vào tăng trưởng, từ phía sản xuất tiếp tục là khu vực FDI với ngành công nghiệp chế biến chế tạo (CBCT); từ phía chi tiêu là tiêu dùng nội địa và thặng dư thương mại tăng cao. Lạm phát và tỷ giá ổn định cũng là những điểm sáng của kinh tế năm 2019.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn những nút thắt về thể chế khiến các nguồn lực phân bổ chưa hiệu quả; chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện nhiều dẫn đến rủi ro lạm phát và ổn định vĩ mô; khu vực doanh nghiệp tư nhân (DNTN) vẫn gặp nhiều rào cản phát triển; dư địa chính sách tài khóa tiếp tục bị thu hẹp.
Bên cạnh đó, năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam mặc dù có tốc độ tăng khá so với khu vực nhưng hiện đang ở mức rất thấp. So với một số quốc gia khác trong khối ASEAN, NSLĐ của Việt Nam năm 2019 chỉ bằng khoảng 1/5 Malaysia; so với Thái Lan và Trung Quốc bằng khoảng 1/3; so với Indonesia bằng khoảng 1/2; và gần bằng một nửa NSLĐ trung bình của khối. Mức NSLĐ của Việt Nam thuộc hàng đáy của các quốc gia ASEAN, thậm chí thấp hơn Philippines, Lào và Myanmar, chỉ cao hơn Campuchia. Năng suất một lao động của Việt Nam so với Mỹ chưa đến 10%, trong khi ở Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan là xấp xỉ 25% và Malaysia là hơn 50%. Trong suốt hai thập kỷ qua, Việt Nam không giảm được cách biệt với các nước trong khu vực, chênh lệch năng suất giữa Việt Nam và các nước không được thu hẹp, thậm chí càng bị bỏ xa; nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế ngày càng trở nên rõ nét.
NSLĐ có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Năng suất thấp là yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ và tính bền vững. Thúc đẩy tăng trưởng năng suất hiện đang là mục tiêu quan trọng được Việt Nam chú trọng. Đồng thời, trong bối cảnh những động lực tăng trưởng hiện có đang trở nên dần cạn kiệt và thiếu hiệu quả, sự phát triển nhanh chóng của kinh tế số (KTS) mang lại cho Việt Nam cơ hội để cải thiện mạnh mẽ mức NSLĐ tổng thể nền kinh tế.
Trong những năm sắp tới, sự phát triển của KTS chắc chắn sẽ là một trong những động lực tăng năng suất mới. Tự động hóa, số hóa sẽ dần thay thế nhiều khâu trong quy trình sản xuất của nhiều ngành kinh tế, góp phần làm giảm chi phí, tăng lợi nhuận và sử dụng ít lao động hơn. Công nghệ số có khả năng ứng dụng ở hầu hết các ngành kinh tế, có thể tạo nên những thay đổi lớn về phương thức sản xuất và NSLĐ trong các ngành kinh tế. Một số ngành có thể sớm tận dụng lợi thế của công nghệ số để tạo nên thay đổi lớn về sản lượng, năng suất như: Công nghiệp CBCT, vận tải - logistic, tài chính - ngân hàng, y tế, giáo dục, nông nghiệp công nghệ cao,… Công nghệ số sẽ làm thay đổi mô hình kinh doanh, cơ cấu ngành và thậm chí kinh tế ngành theo những cách chưa từng có.
KTS có thể tạo cơ hội và các động lực tăng trưởng mới cho NSLĐ tổng thể của nền kinh tế. Tuy nhiên, KTS chỉ có thể đóng góp vào tăng trưởng NSLĐ nếu lao động có thể được tái phân bổ đến các lĩnh vực năng suất cao hơn khi cần thiết. Nếu có những rào cản cơ cấu trong việc sử dụng các công nghệ mới cũng như phân bổ lao động hiệu quả thì tác động của KTS sẽ không đáng kể. Ngoài ra, tác động của KTS đối với tăng trưởng năng suất của từng ngành, khu vực kinh tế là khác nhau do đặc tính cũng như khả năng hấp thụ công nghệ của từng ngành, khu vực kinh tế.
Vì vậy, việc nghiên cứu xem xét tác động của KTS số đến NSLĐ của các doanh nghiệp (DN), các ngành kinh tế, các khu vực kinh tế cùng với các xu hướng, khả năng dịch chuyển lao động giữa các ngành, các khu vực kinh tế sẽ giúp Việt Nam nhận diện rõ ràng hơn về những động lực mới mà KTS đem lại; từ đó có thể đề xuất được các giải pháp phù hợp thúc đẩy tăng trưởng NSLĐ tổng thể của nền kinh tế trong giai đoạn chiến lược 2020 - 2030 sắp tới.
Mục tiêu nghiên cứu
Báo cáo Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2019 có chủ đề “Cải thiện năng suất lao động trong bối cảnh kinh tế số” với các mục tiêu: (i) Đánh giá diễn biến kinh tế năm 2019 (những thành tựu và những tồn tại, đánh giá nguyên nhân, phân tích cơ hội - thách thức) và triển vọng năm 2020; (ii) Phân tích chuyên sâu thực trạng NSLĐ tổng thể của nền kinh tế, nghiên cứu tác động của KTS đến NSLĐ, dự báo tăng trưởng NSLĐ trong bối cảnh KTS cho đến năm 2030; (iii) Đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm gia tăng nhanh năng suất tổng thể nền kinh tế trong giai đoạn sắp tới.
Từ mục tiêu trên, Báo cáo sẽ có những mục tiêu cụ thể sau:
- Làm rõ bối cảnh quốc tế năm 2019 và những tác động của thế giới đến kinh tế Việt Nam;
- Đánh giá diễn biến kinh tế Việt Nam trên bốn khu vực chính của nền kinh tế (khu vực kinh tế thực, khu vực kinh tế đối ngoại, khu vực tài chính tiền tệ, khu vực tài chính ngân sách); đánh giá những thành tựu, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân;
- Phân tích những cơ hội, thách thức và đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2020;
- Đánh giá chung về NSLĐ tổng thể Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019; đánh giá đóng góp của tăng năng suất nội ngành/khu vực kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành/khu vực kinh tế đối với tăng trưởng NSLĐ tổng thể;
- Phân tích tác động của KTS đến NSLĐ tại các DN và các đơn vị cá thể theo ngành và theo khu vực kinh tế (cả khu vực kinh tế chính thức và khu vực kinh tế cá thể, phi chính thức);
- Dự báo kịch bản tác động của KTS đến NSLĐ tổng thể, NSLĐ các ngành và các khu vực kinh tế giai đoạn 2020 - 2030;
- Khuyến nghị chính sách trong điều hành kinh tế năm 2019 và những năm tiếp theo; đồng thời, đề xuất các khuyến nghị chính sách để gia tăng nhanh năng suất tổng thể của nền kinh tế giai đoạn 2020 - 2030 trong bối cảnh KTS.
Đối tượng và phạm vi
Đối tượng nghiên cứu của Báo cáo là kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam; NSLĐ tổng thể nền kinh tế; NSLĐ của các DN thuộc các ngành và khu vực sở hữu của nền kinh tế; NSLĐ của các đơn vị cá thể phi chính thức; và tác động của KTS đến NSLĐ.
Phần tổng quan kinh tế có phạm vi nghiên cứu là năm 2019; trong khi phần liên quan đến NSLĐ có phạm vi nghiên cứu dài hơn (từ năm 2010 - 2019) để nghiên cứu tổng thể và có thể chạy các mô hình kinh tế định lượng.
Phương pháp nghiên cứu và số liệu
Phương pháp nghiên cứu của Báo cáo là kết hợp phương pháp định tính (phân tích, so sánh, thống kê,...) và phương pháp định lượng xây dựng các mô hình kinh tế lượng để ước lượng tác động của KTS đến NSLĐ, cũng như dự báo các kịch bản tăng trưởng NSLĐ cho đến năm 2030.
Số liệu sử dụng cho phần đánh giá tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2019 được chiết xuất chủ yếu từ các nguồn TCTK, BTC, NHNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, IFS (IMF), và WDI (WB).
Nguồn số liệu sử dụng cho đánh giá và so sánh NSLĐ tổng thể dựa trên cơ sở số liệu của TCTK, WB, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Năng suất châu Á (APO).
Số liệu sử dụng cho các mô hình định lượng là từ các mẫu điều tra DN như: Tổng điều tra kinh tế năm 2012, 2017 (bao gồm điều tra DN và điều tra khối cá thể); các cuộc Tổng điều tra DN thực hiện từ các năm 2012 đến năm 2019.
Điểm khác biệt của Báo cáo
Báo cáo Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2019 có những điểm khác biệt và cũng là điểm nhấn so với các báo cáo kinh tế thường niên của các tổ chức khác.
Thứ nhất, Báo cáo thể hiện quan điểm riêng của nhóm chuyên gia Trường Đại học Kinh tế Quốc dân về các vấn đề kinh tế trong năm, có tính phản biện chính sách một cách độc lập, là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách.
Thứ hai, bên cạnh phân tích định tính, những đánh giá của Báo cáo được thực hiện thông qua các mô hình định lượng, do đó, đảm bảo những kết luận đưa ra được dựa trên những bằng chứng thực nghiệm, có căn cứ khoa học, có dẫn chứng cụ thể. Điều này cũng thể hiện tính học thuật cao của Báo cáo thường niên, gắn kết những vấn đề nóng của nền kinh tế với việc thực hiện nghiên cứu định lượng. Vì vậy, Báo cáo cũng là một tài liệu tham khảo hữu ích cho giới nghiên cứu.
Thứ ba, cách viết của Báo cáo được điều chỉnh để dung hòa tính học thuật trong nghiên cứu kinh tế (sử dụng mô hình toán, các phương pháp thống kê,…) với ngôn ngữ dễ hiểu, dễ đọc đối với người đọc thuộc các đối tượng khác nhau.
Thứ tư, đây là nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam định lượng tác động của KTS đến NSLĐ các ngành, các khu vực của nền kinh tế; đồng thời cũng dự báo tác động của KTS đến NSLĐ tổng thể cho đến năm 2030. Báo cáo không những nghiên cứu năng suất ở khu vực chính thức, mà còn nghiên cứu ở khu vực phi chính thức, cá thể. Bên cạnh đó, Báo cáo cũng có nghiên cứu định lượng đánh giá tác động của đại dịch COVID-19 đối với nền kinh tế.
Cấu trúc của Báo cáo
Ngoài phần Giới thiệu, Báo cáo bao gồm phần Tóm tắt Báo cáo và phần viết chính. Tóm tắt Báo cáo sẽ tóm tắt lại toàn bộ Báo cáo với cách viết không kỹ thuật, thân thiện với người đọc.
Báo cáo chính gồm có 3 phần. Vì là một báo cáo đánh giá kinh tế thường niên, nên Phần 1 (Kinh tế Việt Nam năm 2019 và triển vọng năm 2020) nghiên cứu về tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2019 và triển vọng năm 2020. Phần này bao gồm: Diễn biến kinh tế thế giới năm 2019; Đánh giá tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2019 thông qua các khu vực của nền kinh tế (khu vực kinh tế thực, khu vực kinh tế đối ngoại, khu vực tài chính tiền tệ, khu vực tài chính ngân sách); và triển vọng kinh tế năm 2020.
Phần 2 (Cải thiện năng suất lao động trong bối cảnh kinh tế số) được kết cấu thành các đề mục chính theo cấu trúc một nghiên cứu kết hợp định tính và định lượng. Mục 2.1 sẽ đề ra khung phân tích cho nghiên cứu, bao gồm chi tiết về cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu và số liệu. Mục 2.2 nghiên cứu tổng quan về KTS tại Việt Nam hiện nay và những triển vọng có thể tạo ra các động lực mới cho tăng trưởng NSLĐ. Mục 2.3 sẽ phân tích thực trạng NSLĐ tổng thể của nền kinh tế giai đoạn 2010 - 2019. Mục 2.4 trình bày kết quả định lượng ước lượng tác động của KTS đến NSLĐ ở phạm vi các DN và các đơn vị cá thể theo các ngành và theo các khu vực kinh tế. Mục 2.5 sẽ đưa ra dự báo kịch bản tác động của KTS đến NSLĐ tổng thể, NSLĐ theo ngành và theo khu vực cho đến năm 2030.
Phần 3 (Khuyến nghị chính sách), dựa trên các kết quả nghiên cứu ở Phần 1 và Phần 2, nhóm tác giả đưa ra các khuyến nghị chính sách về điều hành kinh tế năm 2020 nói riêng và các năm sắp tới nói chung; và các khuyến nghị chính sách cụ thể với mục tiêu cải thiện NSLĐ trong bối cảnh KTS cho đến năm 2030.
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Các tác giả chủ biên
GS. TS. Trần Thọ Đạt nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế học tại Đại học Quốc gia Australia (ANU) và Tiến sĩ Thống kê tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện ông là Chủ tịch Hội đồng Trường, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là kinh tế học, kinh tế phát triển, chính sách tài chính và tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính trong giáo dục đại học, các vấn đề kinh tế học về biến đổi khí hậu và môi trường và quản trị đại học.
PGS. TS. Tô Trung Thành nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế học tại Đại học Birmingham, Vương quốc Anh. Ông từng là thành viên nhóm tư vấn chính sách (PAG) cho Bộ Tài chính và Nhóm Tư vấn chính sách kinh tế vĩ mô (MAG) cho Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Hiện ông là Trưởng phòng Quản lý Khoa học và nghiên cứu giảng dạy tại Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là phân tích kinh tế vĩ mô, kinh tế quốc tế, ổn định tài chính, phân tích hoạt động doanh nghiệp.
Các tác giả khác (theo thứ tự ABC)
PGS. TS. Vũ Sỹ Cường nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế tài chính tại Đại học Paris 1 - Pantheon Sorbonne Cộng hòa Pháp. Hiện ông là Phó Trưởng Bộ môn Phân tích chính sách tài chính, Khoa Tài chính công, Học viện Tài chính. Ông từng tham gia tư vấn cho các Dự án của Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội và các tổ chức quốc tế. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là phân tích chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, phân tích chính sách kinh tế vĩ mô, doanh nghiệp nhà nước...
ThS. Nguyễn Anh Dương nhận bằng Cử nhân Kinh tế học và Thạc sĩ Kinh tế học tại Đại học Quốc gia Australia (ANU). Ông hiện là Trưởng ban Ban Nghiên cứu tổng hợp (trước là Ban Chính sách kinh tế vĩ mô), Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Ông là đại diện của Việt Nam tại Ủy ban Kinh tế, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) kể từ năm 2012. Ông cũng là đại diện của Việt Nam tại mạng lưới Các Viện nghiên cứu chính sách ASEAN+6 (RIN). Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là chính sách tiền tệ, hội nhập kinh tế quốc tế, thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh.
ThS. Nguyễn Hoàng Hà nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế phát triển và Quốc tế tại Đại học Quốc gia Australia (ANU). Ông là thành viên tham gia nhiều đề án trình Ban Chấp hành Trung ương, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về phát triển quốc gia, vùng và địa phương. Hiện ông là Trưởng ban Ban Tổng hợp, Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu của ông là chiến lược và phát triển lãnh thổ, công nghiệp hóa, và đổi mới sáng tạo.
TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế phát triển tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Việt Nam. Hiện bà là Phó Trưởng Khoa Môi trường, Biến đổi khí hậu và Đô thị, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là phát triển bền vững, bất bình đẳng, tài chính đô thị.
ThS. Đinh Tuấn Minh nhận bằng Thạc sĩ tại Học viện Công nghệ châu Á (AIT), Thái Lan và theo học chương trình Tiến sĩ về Kinh tế đổi mới công nghệ tại Trường Đại học Tổng hợp Maastricht, Hà Lan. Hiện ông đang công tác tại Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là về các cơ chế thị trường và khả năng ứng dụng của chúng trong đời sống kinh tế - xã hội từ góc độ của kinh tế học thể chế mới và kinh tế học trường phái Áo.
ThS. Phạm Xuân Nam nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế phát triển tại Chương trình hợp tác Cao học Việt Nam - Hà Lan, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện ông đang công tác tại Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là tăng trưởng doanh nghiệp và những yếu tố ảnh hưởng.
ThS. Trần Anh Ngọc nhận bằng Thạc sĩ Khoa học về Kế toán và Quản trị tại Đại học Southampton, Vương quốc Anh. Hiện ông đang nghiên cứu và giảng dạy tại Viện Ngân hàng Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là lý thuyết về tài chính tiền tệ, phân tích tài chính doanh nghiệp, tài chính toàn diện.
ThS. Lưu Thị Phương nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế quốc tế và phát triển tại Đại học Quốc gia Australia (ANU). Hiện bà đang công tác tại Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tài khóa, tiền tệ) và kinh tế học ứng dụng.
ThS. Lê Thị Như Quỳnh tốt nghiệp Thạc sĩ Kinh tế học tại Đại học Sydney, Australia. Hiện bà là giảng viên Viện Ngân hàng tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là tài chính ngân hàng, tài chính toàn diện.
ThS. Phạm Ngọc Toàn nhận bằng Thạc sĩ Toán kinh tế tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Ông từng là thành viên tư vấn về M&E, các hoạt động về An sinh xã hội cho Ngân hàng Thế giới; thành viên tư vấn cho Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO); tham gia giảng dạy và tư vấn cho các hoạt động về đánh giá tác động của chính sách về xã hội và giới cho Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ). Ông cũng tham gia xây dựng đề án Dự báo cầu lao động cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Hiện ông là Giám đốc Trung tâm Thông tin, Phân tích và Dự báo chiến lược, Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là phân tích các vấn đề trên thị trường lao động, việc làm bền vững, việc làm xanh.
ThS. Nguyễn Quỳnh Trang, nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế học tại Đại học Birmingham, Vương quốc Anh; hiện đang là nghiên cứu sinh của Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Bà Nguyễn Quỳnh Trang là nghiên cứu viên chính, Ban Chiến lược Phát triển nhân lực và xã hội, Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu của bà là chiến lược, quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực, năng suất lao động.
TS. Bùi Trinh nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Kyoto, Nhật Bản. Hiện ông đang công tác tại Viện Nghiên cứu phát triển Việt Nam (VIDERI). Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là phân tích bảng I/O.
TS. Nguyễn Thị Cẩm Vân nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế học tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện bà là Trưởng bộ môn Toán cơ bản, Khoa Toán kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, năng suất lao động, toàn cầu hóa.
DOWNLOAD Tóm tắt Ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên 2019 tại ĐÂY
Xem VIDEO GIỚI THIỆU Ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên 2019 tại
ĐÂY